Friday, May 31, 2013

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng: 'Không để nước nào đặt căn cứ quân sự tại VN'


Phát biểu khai mạc Đối thoại Shangri La tối 31/5, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ VN.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu khai mạc Shangri-La
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu khai mạc Shangri-La.
Thủ tướng nói, Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.
Đòi hỏi phi lý
Thủ tướng chia sẻ, khu vực Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. “Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương”.
"Nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, chúng ta không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh.
Cạnh tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển. Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển".
Thủ tướng nêu bật những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.
Theo Thủ tướng, có thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy,theo Thủ tướng, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. "Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.
Đặc biệt, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.
Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.
Mỗi quốc gia luôn phải là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược", Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu.
Cần sớm có bộ Quy tắc COC
Đề cập tới vấn đề Biển Đông, Thủ tướng cho hay, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnôm-pênh năm 2002. Nhân kỷ niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).
Chúng tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp tác, phát triển của thế giới đương đại.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.
Một lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
Đề cao vai trò ASEAN
Thủ tướng bày tỏ tin tưởng rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển.
"Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang tính xây dựng của các quốc gia này.
Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.
Tôi muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược, hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm và khó khăn nhất".
Về hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.
ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và của cả khu vực.

(TPO)

Trước phát biểu của Thủ tướng, Trung Quốc có thấy thẹn?


Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Trung Quốc có nghe chăng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đại diện cho dân tộc Việt Nam nói lên mong muốn của người dân đất nước chúng tôi là được sống bình yên. Anh có thấy thẹn, xấu hổ không khi mà trước nguy cơ, thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu, Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau? Đất nước Việt Nam sống nhân văn, yêu chuộng hòa bình và không gây sự với ai là vậy, thế mà anh cứ mãi hành động ngông cuồng, thế có coi có được không?
Xem bài liên quan Đối thoại Shangri-La:
Trong bất cứ diễn đàn nào liên quan đến vấn đề an ninh khu vực, an ninh quốc gia, Việt Nam luôn mở đầu bài phát biểu của mình với thông điệp ôn hòa và kết thúc cũng như thế. Trongbài phát biểu đầy ấn tượng tại Shangri-la, ngay sau khi gửi cảm ơn ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng nước chủ nhà Singapore, Tiến sĩ Giôn Chip-man và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri-La 12 đã mời đến dự và phát biểu khai mạc diễn đàn quan trọng, Thủ tướng đã gửi trọn niềm tin: “Tin rằng sự có mặt của đông đảo các quan chức Chính phủ, các nhà lãnh đạo quân đội, các học giả có uy tín và toàn thể Quý vị tại đây thể hiện sự quan tâm, nỗ lực cùng nhau gìn giữ hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trong một thế giới đầy biến động”. Trong đoạn kết thúc diễn văn, Thủ tướng vẫn nhắc lại lập trường trước sau như một của dân tộc Việt Nam đó là: “Hòa bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á – Thái Bình Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng”.
Phát biểu Đối thoại Shangri-La, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng: Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin.
Tại Hội nghị, Thủ tướng rất nhiều lần đề cập đến lòng tin và chữ tín. Thủ tướng nêu rõ: “Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành”. Dù không nêu đích danh, nhưng chắc rằng, thông qua câu nói trên, mọi người tham gia Hội nghị đều rõ, Thủ tướng đang muốn đề cập đến ai. Nếu như chân thành và tôn trọng thì không bao giờ Trung Quốc đi ngụy tạo lịch sử, ứng xử vô nhân đạo trên biển Đông – khi mà cố tình gây hấn trên quần đảo Trường SaHoàng Sa, làm ảnh hưởng đến tính mạng ngư dân Việt đang khai thác tài nguyên trên biển của đất Việt!
Người cũng nhắc khẽ đến Trung Quốc để nước này nhớ rằng: “Lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua – mà tất cả cùng thua.” Nếu Trung Quốc mãi hành động bất cần lý lẽ, thì một ngày nào đó, khi ngoảnh đầu lại sẽ thấy rằng mình đã đi quá xa và muốn quay trở lại, cũng đã muộn màng. Phía trước luôn là vực thẩm chờ đợi!
Khéo léo vạch tội Trung Quốc trước Hội nghị, thế nhưng Thủ tướng luôn khẳng định chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác. Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.
Thủ tướng đã nêu lên chân lý trong mọi thời đại mà nhân loại yêu chuộng hòa bình ai cũng muốn hướng đến chỉ riêng Trung Quốc là không muốn hướng đến. Đó là sống trên lý lẽ và lấy luật pháp làm thước đo đạo đức. “Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng”. Tương ứng với phát biểu này, vậy thì Trung Quốc có được xem là văn minh, thông minh không? khi mà mãi kêu gọi chiến tranh, kêu gọi dùng vũ lực để đi cướp lãnh thổ của người khác?
Nhân cơ hội này, Thủ tướng cũng nhắc khéo đến đất nước láng giềng Campuchia, vì lợi ích cá nhân đã không màng đến lợi ích của khu vực. Không biết, lắng nghe câu nói: “Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn”, Campuchia có cảm thấy “nhột”?
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trao đổi với Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera
Không làm uổng công, sự kỳ vọng của người dân Việt, Thủ tướng đã trình bày rất khéo, rất chi tiết và vạch hàng loạt tội lỗi của Trung Quốc đối với người dân Việt tại Hội nghị lần này. Thông qua những câu nói rất điềm đạm, chân tình và cứng rắn khi bày tỏ quyết tâm bảo vệ chủ quyền, hy vọng Việt Nam sẽ nhận được hiệu ứng tốt từ 27 quốc gia tham gia Hội nghị và các quốc gia trên thế giới. Thông qua Hội nghị này, một lần nữa, Thủ tướng đã khẳng định được rằng: Trường Sa và Hoàng Sa mãi mãi là của Việt Nam; Trung Quốc chỉ là kẻ chiếm giữ sai trái. Thế nên Việt Nam quyết giữ và đòi lại những gì thuộc về Việt Nam – những phần lãnh thổ mà Tòa án Quốc tế công nhận là thuộc về đất Việt, nơi mà biết bao người dân Việt đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc!…
Thanh Trúc
(Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả) / Nguyễn Tấn Dũng

Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Đối thoại Shangri La

Blogger Đông A: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật tạo ra những hình ảnh trái chiều trong mắt tôi. Bài phát biểu của ông khai mạc Đối thoại Shangri La tạo cho tôi ấn tượng giống như hồi ông phát biểu về Hoàng Sa, Trường Sa trước Quốc Hội. Mỗi khi ông phát biểu, đánh giá về ông lại phức tạp và khó khăn hơn. Nếu so sánh những phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với những nhân vật nguyên thủ khác, như ông Nguyễn Phú Trọng, có thể thấy một tầm tư duy và chiến lược vượt trội của ông Nguyễn Tấn Dũng. Dẫu biết rằng các phát biểu của nguyên thủ chưa chắc đã do chính tay các nguyên thủ chấp bút, nhất là trong bối cảnh chính trị Việt Nam, có khi bị duyệt lên duyệt xuống qua tay nhiều người, nhưng rõ ràng các phát biểu của ông Nguyễn Tấn Dũng vượt xa các phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng. Điểm khác biệt đó chỉ có thể giải thích được bằng sự khác biệt giữa ông Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng, bất kể các phát biểu có phải do chính các ông chấp bút hay không.

Vậy ông Nguyễn Tấn Dũng thực sự là con người như thế nào? Có nên nghi ngờ giữa lời nói và hành động của ông không? Tôi nghĩ vấn đề mấu chốt là ông Nguyễn Tấn Dũng cần phải lấy lại niềm tin từ dân chúng. Rõ ràng khi nhậm chức Thủ tướng dân chúng vẫn tràn đầy niềm tin ở ông, nhưng càng ngày niềm tin càng mất dần. Và niềm tin chỉ có thể vực dậy bằng hành động, không phải bằng lời nói. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có muốn có "lòng tin chiến lược" từ dân chúng không?

Tôi nghĩ ông Nguyễn Tấn Dũng là nhân vật chính trị thú vị, đa chiều, đa ảnh, rất đáng để quan sát và xem ông ứng xử các tình thế chính trị như thế nào. Nhưng vị thế vừa là người quan sát, vừa là dân chúng của chúng ta cần phải như thế nào? Ít nhất cần phải tẩy sạch định kiến và những đường nhăn cũ trong tư duy.

Hỏi về tài liệu gốc:

Các nguồn tin trên mạng đều dẫn chiếu câu nói "Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng, nếu tôi không chống được tham nhũng tôi xin từ chức ngay" về bài phát biểu khi nhậm chức Thủ tướng của ông Nguyễn Tấn Dũng năm 2006. Tôi tra google nhưng không tìm thấy tài liệu gốc. Có bạn đọc nào có tài liệu gốc không? Liệu chúng ta có bị xỏ mũi vào một câu phát ngôn không có thật?

Đông A


Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013

Chiều tối nay, 31/5, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu dẫn đề khai mạc Đối thoại Shangri-La 2013 tại Singapore. Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng.

  Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á

Thưa Ngài Thủ tướng Lý Hiển Long,

Thưa Tiến sĩ Giôn Chip - man,

Thưa Quý vị và các bạn,


Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn ngài Lý Hiển Long, Thủ tướng nước chủ nhà Singapore, Tiến sĩ Giôn Chip-man và Ban Tổ chức Đối thoại Shangri-La 12 đã mời tôi dự và phát biểu khai mạc diễn đàn quan trọng này. Sau 12 năm kể từ khi ra đời, Đối thoại Shangri-La thực sự đã trở thành một trong những diễn đàn đối thoại về hợp tác an ninh thực chất và hữu ích nhất ở khu vực. Tôi tin rằng sự có mặt của đông đảo các quan chức Chính phủ, các nhà lãnh đạo quân đội, các học giả có uy tín và toàn thể Quý vị tại đây thể hiện sự quan tâm, nỗ lực cùng nhau gìn giữ hòa bình và an ninh cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong một thế giới đầy biến động.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu dẫn đề Đối thoại Shangri-la
Thưa Quý vị và các bạn,                   

Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.

Trong thế kỷ 20, Đông Nam Á nói riêng và Châu Á - Thái Bình Dương nói chung vốn là chiến trường ác liệt, bị chia rẽ sâu sắc trong nhiều thập kỷ. Có thể nói cả khu vực này luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình. Muốn có hòa bình, phát triển, thịnh vượng thì phải tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Nói cách khác, chúng ta cần cùng nhau chung tay xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của Châu Á - Thái Bình Dương. Đó cũng là chủ đề mà tôi muốn chia sẻ với quý vị và các bạn tại diễn đàn hôm nay.

Trước hết, Việt Nam chúng tôi có niềm tin sâu sắc vào tương lai tươi sáng trong hợp tác phát triển của khu vực, nhưng với xu thế tăng cường cạnh tranh và can dự - nhất là từ các nước lớn, thì bên cạnh những mặt tích cực cũng tiềm ẩn những rủi ro tiêu cực mà chúng ta cần phải cùng nhau chủ động ngăn ngừa.

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động và là nơi tập trung ba nền kinh tế lớn nhất thế giới và nhiều nền kinh tế mới nổi. Xu thế hợp tác, liên kết đa tầng nấc, đa lĩnh vực đang diễn ra hết sức sôi động và ngày càng thể hiện là xu thế chủ đạo. Điều này là cơ hội hết sức lạc quan cho tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, nhìn lại bức tranh toàn cảnh khu vực trong những năm qua, chúng ta cũng không khỏi quan ngại trước những nguy cơ và thách thức ngày càng lớn đối với hòa bình và an ninh.

Cạnh tranh và can dự vốn là điều bình thường trong quá trình hợp tác và phát triển. Nhưng nếu sự cạnh tranh và can dự đó mang những toan tính chỉ cho riêng mình, bất bình đẳng, trái với luật pháp quốc tế, thiếu minh bạch thì không thể củng cố lòng tin chiến lược, dễ dẫn tới chia rẽ, nghi kỵ và nguy cơ kiềm chế lẫn nhau, ảnh hưởng tiêu cực tới hòa bình, hợp tác và phát triển.

Những diễn biến khó lường trên bán đảo Triều Tiên; tranh chấp chủ quyền lãnh thổ từ Biển Hoa Đông đến Biển Đông đang diễn biến rất phức tạp, đe dọa hòa bình và an ninh khu vực, trước hết là an ninh, an toàn và tự do hàng hải đang gây quan ngại sâu sắc đối với cả cộng đồng quốc tế. Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.

Tôi muốn lưu ý thêm rằng lưu thông trên biển chiếm tỷ trọng và có ý nghĩa ngày càng lớn. Theo nhiều dự báo, sẽ có trên 3/4 khối lượng hàng hóa thương mại toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển và 2/3 số đó đi qua Biển Đông. Chỉ cần một hành động thiếu trách nhiệm, gây xung đột sẽ làm gián đoạn dòng hàng hóa khổng lồ này và nhiều nền kinh tế không chỉ trong khu vực mà cả thế giới đều phải gánh chịu hậu quả khôn lường.

Trong khi đó, các nguy cơ xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, ly khai, bạo loạn, khủng bố, an ninh mạng… vẫn hiện hữu. Những thách thức mang tính toàn cầu như biến đổi khí hậu, nước biển dâng; dịch bệnh; nguồn nước và lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn, hạ nguồn của các con sông chung… ngày càng trở nên gay gắt.

Có thể nhận thấy những thách thức và nguy cơ xung đột là không thể xem thường. Mọi người chúng ta đều hiểu, nếu để xảy ra mất ổn định, nhất là xung đột quân sự, nhìn tổng thể thì sẽ không có kẻ thắng người thua - mà tất cả cùng thua. Vì vậy, cần khẳng định rằng, cùng nhau xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng là lợi ích chung của tất cả chúng ta. Đối với Việt Nam chúng tôi, lòng tin chiến lược còn được hiểu trên hết là sự thực tâm và chân thành.

Thứ hai, để xây dựng lòng tin chiến lược, cần tuân thủ luật pháp quốc tế, đề cao trách nhiệm của các quốc gia - nhất là các nước lớn và nâng cao hiệu quả thực thi của các cơ chế hợp tác an ninh đa phương.

Trong lịch sử thế giới, nhiều dân tộc đã phải gánh chịu những mất mát không gì bù đắp được khi là nạn nhân của tham vọng cường quyền, của xung đột, chiến tranh. Trong thế giới văn minh ngày nay, Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử chung đã trở thành giá trị của toàn nhân loại cần phải được tôn trọng. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để xây dựng lòng tin chiến lược.

Mỗi quốc gia luôn phải là một thành viên có trách nhiệm đối với hòa bình và an ninh chung. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ cần có quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cao hơn là có lòng tin chiến lược vào nhau. Các nước lớn có vai trò và có thể đóng góp nhiều hơn, đồng thời có trách nhiệm lớn hơn trong việc tạo dựng và củng cố lòng tin chiến lược. Mặt khác, tiếng nói đúng đắn cũng như sáng kiến hữu ích không phụ thuộc là của nước lớn hay nước nhỏ. Nguyên tắc hợp tác, đối thoại bình đẳng, cởi mở trong ASEAN, các diễn đàn do ASEAN khởi xướng và ngay Đối thoại Shangri-La của chúng ta cũng được hình thành và duy trì trên cơ sở tư duy đó.

Tôi hoàn toàn chia sẻ quan điểm của Ngài Xu-xi-lô Bam-bang Dút-đô-dô-nô, Tổng thống nước Cộng hòa In-đô-nê-xi-a, tại diễn đàn này năm ngoái là các nước vừa và nhỏ có thể gắn kết cùng các nước lớn vào một cấu trúc bền vững ở khu vực. Tôi cũng đồng tình với ý kiến của Ngài Thủ tướng Sinh-ga-po Lý Hiển Long trong bài phát biểu tại Bắc Kinh tháng 9/2012 cho rằng sự hợp tác tin cậy và trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ đóng góp tích cực cho lợi ích chung của khu vực. Chúng ta đều hiểu rằng Châu Á - Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực cùng hợp tác và chia sẻ lợi ích. Tương lai của Châu Á - Thái Bình Dương đã và sẽ tiếp tục được tạo dựng bởi vai trò và sự tương tác của tất cả các quốc gia trong khu vực và cả thế giới, nhất là các nước lớn và chắc chắn trong đó không thể thiếu vai trò của ASEAN.

Tôi tin rằng các nước trong khu vực đều không phản đối can dự chiến lược của các nước ngoài khu vực nếu sự can dự đó nhằm tăng cường hợp tác vì hòa bình, ổn định và phát triển. Chúng ta có thể kỳ vọng nhiều hơn vào vai trò của các nước lớn, nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc, hai cường quốc có vai trò và trách nhiệm lớn nhất (tôi xin nhấn mạnh là lớn nhất) đối với tương lai quan hệ của chính mình cũng như của cả khu vực và thế giới. Điều quan trọng là sự kỳ vọng đó cần được củng cố bằng lòng tin chiến lược và lòng tin chiến lược cần được thể hiện thông qua những hành động cụ thể mang tính xây dựng của các quốc gia này.

Chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò của một nước Trung Hoa đang trỗi dậy mạnh mẽ và của Hoa Kỳ - một cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta trông đợi và ủng hộ Hoa Kỳ và Trung Quốc khi mà các chiến lược, các việc làm của hai cường quốc này tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc gia, vừa đem lại lợi ích cho chính mình, đồng thời đóng góp thiết thực vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng chung.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm là, các cơ chế hợp tác hiện có trong khu vực như Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+)… cũng như Đối thoại Shangri-La đã tạo ra nhiều cơ hội để đẩy mạnh hợp tác an ninh đa phương và tìm giải pháp cho những thách thức đang đặt ra. Nhưng có thể nói rằng, vẫn còn thiếu – hay ít nhất là chưa đủ - lòng tin chiến lược trong việc thực thi các cơ chế đó. Điều quan trọng trước hết là phải xây dựng sự tin cậy lẫn nhau trước các thử thách, các tác động và trong tăng cường hợp tác cụ thể trên các lĩnh vực, các tầng nấc, cả song phương và đa phương. Một khi có đủ lòng tin chiến lược, hiệu quả thực thi của các cơ chế hiện có sẽ được nâng lên và chúng ta có thể đẩy nhanh, mở rộng hợp tác, đi đến giải pháp về mọi vấn đề, cho dù là nhạy cảm và khó khăn nhất.

Thứ ba, nói đến hòa bình, ổn định, hợp tác, thịnh vượng của khu vực Châu Á – Thái  Bình Dương, chúng ta không thể không nói đến một ASEAN đồng thuận, đoàn kết và với vai trò trung tâm trong nhiều cơ chế hợp tác đa phương.

Khó có thể hình dung được một Đông Nam Á chia rẽ, xung đột trong Chiến tranh Lạnh lại có thể trở thành một cộng đồng các quốc gia thống nhất trong đa dạng và đóng vai trò trung tâm trong cấu trúc đang định hình ở khu vực như ASEAN ngày nay. Sự tham gia của Việt Nam vào ASEAN năm 1995 đánh dấu thời kỳ phát triển mới của ASEAN, tiến tới hình thành một ngôi nhà chung của tất cả các quốc gia Đông Nam Á đúng với tên gọi của mình. Thành công của ASEAN là thành quả của cả quá trình kiên trì xây dựng lòng tin và văn hóa đối thoại, hợp tác cũng như ý thức trách nhiệm chia sẻ vận mệnh chung giữa các nước Đông Nam Á.

ASEAN tự hào là một hình mẫu của nguyên tắc đồng thuận và lòng tin vào nhau trong các quyết định của mình. Đó là nền tảng tạo sự bình đẳng giữa các thành viên cho dù là một Indonesia với dân số gần 1/4 tỷ người và một Brunei với dân số chưa đến nửa triệu người. Đó cũng là cơ sở để các nước ngoài khu vực gửi gắm lòng tin vào ASEAN với tư cách là “người trung gian thực tâm” trong vai trò dẫn dắt nhiều cơ chế hợp tác khu vực.

Với tư duy cùng chia sẻ lợi ích, không phải “kẻ được – người mất”, việc mở rộng Cấp cao Đông Á (EAS) mời Nga và Hoa Kỳ tham gia, tiến trình ADMM+ đã được hiện thực hóa tại Việt Nam năm 2010 và thành công của EAS, ARF, ADMM+ những năm tiếp theo đã củng cố hơn nữa nền tảng cho một cấu trúc khu vực với ASEAN đóng vai trò trung tâm, đem lại niềm tin vào tiến trình hợp tác an ninh đa phương của khu vực này.

Tôi cũng muốn đề cập trường hợp của Mi-an-ma như một ví dụ sinh động về kết quả của việc kiên trì đối thoại trên cơ sở xây dựng và củng cố lòng tin, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau, mở ra một tương lai tươi sáng không chỉ cho Mi-an-ma mà cho cả khu vực chúng ta.

Đã có những bài học sâu sắc về giá trị nền tảng của nguyên tắc đồng thuận, thống nhất của ASEAN trong việc duy trì quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với các nước đối tác và phát huy vai trò chủ động của ASEAN trong những vấn đề chiến lược của khu vực. ASEAN chỉ mạnh và phát huy được vai trò của mình khi là một khối đoàn kết thống nhất. Một ASEAN thiếu thống nhất sẽ tự đánh mất vị thế và không có lợi cho bất cứ một ai, kể cả các nước ASEAN và các nước đối tác. Chúng ta cần một ASEAN đoàn kết, vững mạnh, hợp tác hiệu quả với tất cả các nước để chung tay vun đắp hòa bình và thịnh vượng ở khu vực, chứ không phải là một ASEAN mà các quốc gia thành viên buộc phải lựa chọn đứng về bên này hay bên kia vì lợi ích của riêng mình trong mối quan hệ với các nước lớn. Trách nhiệm của chúng ta là nhân thêm niềm tin trong giải quyết các vấn đề, trong tăng cường hợp tác cùng có lợi, kết hợp hài hòa lợi ích của quốc gia mình với lợi ích của quốc gia khác và của cả khu vực.

Việt Nam cùng các nước ASEAN luôn mong muốn các nước - đặc biệt là các nước lớn, ủng hộ vai trò trung tâm, nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết thống nhất của cộng đồng ASEAN.

Trở lại vấn đề Biển Đông, ASEAN và Trung Quốc đã cùng nhau vượt qua một chặng đường khá dài và cũng không ít khó khăn để ra được Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) tại Hội nghị cấp cao ASEAN ở Phnôm-pênh năm 2002. Nhân kỷ niệm 10 năm ký và thực hiện DOC, các bên đã thống nhất nỗ lực tiến tới Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược, trước hết là thực hiện nghiêm túc DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).

Chúng tôi cho rằng, ASEAN và các nước đối tác có thể cùng nhau xây dựng một cơ chế khả thi để bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải trong khu vực. Làm được như vậy sẽ không chỉ góp phần đảm bảo an ninh, an toàn, tự do hàng hải và tạo điều kiện để giải quyết các tranh chấp, mà còn khẳng định những nguyên tắc cơ bản trong việc gìn giữ hòa bình, tăng cường hợp tác, phát triển của thế giới đương đại.

Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống và các thách thức khác – trong đó có an ninh nguồn nước trên các dòng sông chung, bằng việc xây dựng lòng tin chiến lược, tăng cường hợp tác, hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chung, tôi tin rằng chúng ta cũng sẽ đạt được những thành công, đóng góp thiết thực vào hòa bình, hợp tác, phát triển của khu vực.

Thưa Quý vị và các bạn,

Trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, Việt Nam đã chịu nhiều đau thương, mất mát do chiến tranh gây ra. Việt Nam luôn khao khát hòa bình và mong muốn đóng góp vào việc củng cố hòa bình, tăng cường hữu nghị, hợp tác phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để có một nền hòa bình thực sự và bền vững, thì độc lập, chủ quyền của các quốc gia dù lớn hay nhỏ cần phải được tôn trọng; những khác biệt về lợi ích, văn hóa… cần được đối thoại cởi mở trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.

Chúng ta không quên, nhưng cần khép lại quá khứ để hướng tới tương lai. Với truyền thống hòa hiếu, Việt Nam luôn mong muốn cùng các nước xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.

Việt Nam kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các quốc gia và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Việt Nam không ngừng nỗ lực làm sâu sắc thêm và xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, đối tác hợp tác cùng có lợi với các quốc gia. Chúng tôi mong muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ một khi nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng cùng có lợi được cam kết và nghiêm túc thực hiện.

Nhân diễn đàn quan trọng này, tôi trân trọng thông báo, Việt Nam đã quyết định tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y, quan sát viên quân sự.

Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Việt Nam không là đồng minh quân sự của nước nào và không để nước ngoài nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước khác.

Những năm qua, việc duy trì tăng trưởng kinh tế khá cao đã tạo điều kiện cho Việt Nam tăng ngân sách quốc phòng ở mức hợp lý. Việc hiện đại hóa quân đội của Việt Nam chỉ nhằm tự vệ, bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, không nhằm vào bất cứ quốc gia nào.

Đối với các nguy cơ và thách thức về an ninh khu vực đang hiện hữu như bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông… Việt Nam trước sau như một kiên trì nguyên tắc giải quyết bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Các bên liên quan đều phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.

Một lần nữa, Việt Nam khẳng định tuân thủ nhất quán Tuyên bố nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông; nỗ lực làm hết sức mình cùng ASEAN và Trung Quốc nghiêm túc thực hiện DOC và sớm đạt được COC. Là quốc gia ven biển, Việt Nam khẳng định và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình theo đúng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước LHQ về Luật Biển 1982.

Thưa Quý vị và các bạn,                   

Hòa bình, hợp tác và phát triển là lợi ích, là nguyện vọng tha thiết, là tương lai chung của các quốc gia, các dân tộc. Trên tinh thần cởi mở của Đối thoại Shangri-La, tôi kêu gọi tất cả chúng ta bằng những hành động cụ thể hãy cùng chung tay xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược vì một Châu Á - Thái Bình Dương hòa bình, hợp tác, thịnh vượng.

Xin cảm ơn Quý vị và các bạn./.

(Chinhphu.vn / nguyentandung.org)

Thursday, May 30, 2013

Tại sao Trung Quốc tỏ ra hung hăng trước ngày khai mạc Đối thoại Shangri-La?


"...an ninh hàng hải và tranh chấp chủ quyền Biển Đông sẽ là một trong các chủ đề chính được bàn thảo tại Đối thoại Shangri-La, hay Hội nghị an ninh Châu Á, để kềm chế sự hung hăng của Trung Quốc".

Khách sạn Shangri-La tại Singapore
Đối thoại Shangri-La lần thứ 12 sẽ được tổ chức tại Singapore từ ngày 31/05 đến 05/06/2013. Đây là diễn đàn của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách về quốc phòng, an ninh và các chuyên gia, học giả các nước khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trao đổi thẳng thắn về tình hình các vấn đề khu vực và quốc tế, định hướng chiến lược về những vấn đề có tác động đến an ninh khu vực, thúc đẩy hợp tác quốc phòng, tăng cường hiểu biết, xây dựng lòng tin... Đây cũng là dịp để các nước bày tỏ quan điểm về chính sách quốc phòng, an ninh của mỗi nước. Ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việt Nam, sẽ là người phát biểu chính trong buổi lễ khai mạc ngày 31/05.

Đối thoại Shangri-La

Đối thoại Shangri-La (SLD-Shangri-La Dialogue), trên thực tế là Hội nghị thượng đỉnh An ninh Châu Á (IISS Asia Security Summit), là một diễn đàn an ninh liên chính phủ tổ chức hàng năm bởi Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (IISS-International Institute for Strategic Studies), một tổ chức cố vấn độc lập có trụ sở chính tại Anh và nhiều văn phòng đại diện tại Hoa Kỳ, Bahrein và Singapore. Shangri-La là tên một khách sạn ở Singapore, nơi được tổ chức Hội nghị thượng đỉnh An ninh Châu Á đầu tiên từ năm 2002 và tiếp tục cho đến nay. Hội nghị có sự tham dự của các bộ trưởng quốc phòng, các bộ trưởng thường trực và các tướng lãnh quân đội của 28 quốc gia Châu Á-Thái Bình Dương.

Đuợc tổ chức hàng năm, Hội nghị thượng đỉnh An ninh Châu Á nhắm mục tiêu nuôi dưỡng ý thức cộng đồng trong các hoạch định chính sách quan trọng nhất về quốc phòng và an ninh trong khu vực. Song song với cuộc họp chính thức, các đoàn đại biểu chính phủ các nước tận dụng tối đa sự hiện diện của những người đứng đầu quốc gia khác để tổ chức những buổi họp mặt song phương liên quan đến từng nước. Mặc dù là một hội nghị liên chính phủ, hội nghị cũng có sự tham dự của các nhà lập pháp, các chuyên gia khoa học, nhà báo và các đại biểu kinh doanh.

Vì là một diễn đàn không ràng buộc về mặt pháp lý. Tất cả những vấn đề được đưa ra bàn luận tại hội nghị chỉ là để thảo luận, không đi đến bất cứ kết luận ràng buộc nào và các nước tham dự diễn đàn này không phải chịu bất cứ trách nhiệm quốc tế nào. Tuy nhiên, Shangri-La cho đến nay vẫn được đánh giá là diễn đàn an ninh quan trọng nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Những đoàn đại biểu đến tham dự Đối thoại Shangri-La đến từ 28 quốc gia có sự hiện diện chính thức trong khu vực : Australia (Úc), Brunei, Miến Điện, Campuchia, Canada, Pháp, Đức, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Lào, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Pakistan, Trung Quốc, Philippines, Nga, Hàn Quốc, Sri Lanka, Singapore, Thái Lan, Đông Timor, Anh, Hoa Kỳ và Việt Nam.

Trong hội nghị Shangri-La 2011, Việt Nam và Philippines đã tố cáo mạnh mẽ chính sách gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có tiếng nói cứng rắn với Trung Quốc trong một diễn đàn quốc tế công khai. Ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng, nhắc lại vụ tàu hải giám Trung Quốc gây hấn với tàu khảo sát Bình Minh 02 của Tập đoàn Dầu khí PetroVietnam. Sau đó, trong phần trả lời câu hỏi, ông nhắc vụ việc năm 2010, tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò khi khảo sát lòng đáy biển để lập hồ sơ trình Liên Hiệp Quốc về thềm lục địa mở rộng. Ông Voltaire Gazmin, bộ trưởng quốc phòng Philippines, nhắc tới các vụ tàu của Philippines bị tàu Trung Quốc uy hiếp và là vụ Trung Quốc dựng cột sắt và đổ vật liệu xây dựng xuống rặng san hô Amy Douglas Bank của Philippines hồi tháng  05/2011.

Trong hội nghị Shangri-La 2012, Bắc Kinh vẫn dùng chiêu bài cũ là cố tình tạo ra căng thẳng về chủ quyền để chứng tỏ Trung Quốc là nước có ảnh hưởng lớn nhất đến an ninh, trật tự trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh Hoa Kỳ đang đã thực sự bắt đầu triển khai chiến lược mới tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Lần này, trong đối thoại an ninh Shangri-La 2013, chắc chắn lần này Trung Quốc sẽ trình diễn lại những màn cũ và Việt Nam cũng sẽ mạnh mẽ tố cáo những vụ tàu hải giám Trung Quốc tấn công và cấm ngư dân Việt Nam đánh cá quanh các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Phía Philippines chắc chắn  cũng sẽ không để yên cho Trung Quốc cưỡng chiếm bãi Scarborough Shoal và gần đây đang lăm le chiếm thêm rặng san hô Second Thomas Shoal. Đối thoại Shangri-La 2013 hứa hẹn nhiều biến chuyển ngoạn mục vì ngoài vấn đề Biển Đông, Trung Quốc cũng đang rất căng thẳng với Nhật Bản trong tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Senkaku và mẫu thuẫn với Ấn Độ ở vùng biên giới Kashmir…

Những động vọng từ phía Trung Quốc trước ngày khai mạc

Trong những tháng gần đây, phía Trung Quốc đã liên tiếp có những hành động gây căng thẳng ở Biển Đông, vi phạm chủ quyền của Việt Nam trong khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo một số nhà quan sát, những hoạt động thực tế và tuyên truyền của Trung Quốc trên Biển Đông (đặc biệt là ở hai quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam) có ý đồ chiến lược lâu dài nhằm chiếm toàn bộ vùng Biển Đông trước giai đoạn 2025-2030. Những hành động này thường được các tổ chức, ban, ngành (ngư chính, hải giám, hải quân, ngoại giao, truyền thông… của Trung Quốc) phối hợp với nhau một cách rất chặt chẽ. Trong cuộc diệu võ giương oai, lực lượng hải quân và tàu đánh cá của Trung Quốc được tiến hành có phối hợp trong những giai đoạn thời gian khác nhau, lúc thì bí mật (như đổ trộm vật liệu, xây dựng công sự trái phép tại các bãi đá, san hô ở quần đảo Trường Sa), khi thì công khai với sự hậu thuẫn của báo chí và các phương tiện truyền thông (như sự thành lập huyện Tam Sa tháng 06/2012 hay vụ đưa người ra tham quan đảo Phú Lâm trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam cuối tháng 4 và đầu tháng 5 vừa qua).

Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã liên tiếp tiến hành nhiều hành động vi phạm chủ quyền, gây quan ngại ở Biển Đông để thị oai, thí dụ như :

- Ngày 20/3/2013, tàu hải giám Trung Quốc truy đuổi và nổ súng bắn cháy cabin một tàu cá của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi mang số hiệu QNg 96382 TS đang hoạt động bình thường tại vùng biển có chủ quyền của Việt Nam. Đây là vụ việc hết sức nghiêm trọng, vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đe dọa tính mạng và gây thiệt hại tài sản của ngư dân Việt Nam.

- Ngày 6/5/2013, Trung Quốc tổ chức đưa 32 tàu đánh cá ra khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam trong suốt 40 ngày. Điều đáng chú ý là 32 tàu cá Trung Quốc di chuyển theo đường lưỡi bò 9 đoạn hướng về phía bờ biển của Việt Nam. Chiều ngày 13/5/2013, 32 tàu cá này tiến hành thả neo và đánh bắt trái phép trong vùng biển phía cực Tây Nam quần đảo Trường Sa. Truyền thông Trung Quốc công bố tọa độ vị trí các tàu cá Trung Quốc đánh bắt trái phép nằm ở 6°01 độ Vĩ Bắc, 108,48 độ Kinh Đông, cực Tây Nam quần đảo Trường Sa, tức khu lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam.

- Cũng trong ngày 13/5/2013, Trung Quốc cho biết một biên đội tàu hộ vệ mang tên lửa thuộc hạm đội Nam Hải đang tập trận thường niên vùng biển quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

- Từ ngày 6/5/2013 đến ngày 14/5/2013, chính quyền tỉnh Hải Nam (Trung Quốc) đã cử một phái  đoàn khảo sát  một số đảo, bãi đá Đá Chữ Thập, Đá Vành Khăn, Đá Xu Bi trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam và bãi ngầm James cách bờ biển Malaysia chỉ 80 km. Mục đích của chuyến khảo sát phi pháp này là điều tra thực địa để làm quy hoạch phát triển "thành phố Tam Sa", một âm mưu độc chiếm toàn bộ Biển Đông.

- Ngày 15/3/2013, tờ Nhân Dân nhật báo cho đăng một bài viết xúi giục Đài Loan nên "cứng rắn với Việt Nam" ở Trường Sa bằng cách "không cần cảnh cáo, bắn thẳng vào tàu hoặc máy bay của Việt Nam" nếu đi vào vùng biển phụ cận đảo Ba Bình.

- Cũng trong ngày 15/5/2013, Bộ Nông Nghiệp Trung Quốc đơn phương, ngang ngược đưa ra tuyên bố về việc nước này sẽ thi hành lệnh cấm đánh bắt cá (phi pháp – PV) có hiệu lực từ 12h ngày 16/5 đến 12h ngày 1/8 với phạm vi bao gồm cả một số vùng biển của Việt Nam.

Những mục tiêu của Trung Quốc trong Đối thoại Shangri-La

Về Đối thoại Shangri-La 2013, Bắc Kinhrất lo ngại hội nghị này đe dọa chiến lược bành trướng ra Biển Đông nên đã bằng mọi cách giảm thiểu vai trò của nó. Theo dõi những động vọng bất chấp Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS-United Nations Convention on Law of the Sea) và cố tình vi phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, Bắc Kinh muốn đến dự Hội nghị thượng đỉnh An ninh Châu Á, hay Đối thoại Shangri-La trong thế mạnh.

Mục tiêu đầu tiên mà Bắc Kinh nhắm tới là tiếp tục gây hấn trên biển để làm áp lực với những quốc gia liên quan để sau đó đặt sự việc đã rồi trước những lãnh đạo cao cấp của 27 quốc gia khác. Trung Quốc muốn tiếp tục bày tỏ quan điểm cứng rắn đối với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc và Ấn Độ, là những quốc gia chắc chắn sẽ can thiệp vào vấn đề Biển Đông vì chiến lược và lợi ích của họ (an ninh hàng hải, đi lại tự do, hợp tác làm ăn…) trong khu vực này.

Mục tiêu thứ hai là để mọi người làm quen với "lộ trình đoạt trọn Biển Đông" được diễn đạt bằng tuyên bố "đường lưỡi bò chín đoạn"  rộng 1,7 triệu km2 Biển Đông, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam và một số bãi cạn mà Philippines tuyên bố có chủ quyền (Scarborough Shoal và Second Thoms Shoal).

Mục tiêu thứ ba là thúc đẩy lực lượng hải quân bành trướng quân sự ra Biển Đông nhằm đánh chiếm những điểm đảo, bãi đá, rặng san hô ở quần đảo Trường Sa hiện chưa có bên nào phái quân chiếm đóng hoặc lực lượng mỏng yếu, vị trí trọng yếu. Ngày 7/5/2013 tờ Văn Hối xuất bản tại Hồng Kông, một tờ báo được xem như phiên bản của Nhân Dân nhật báo Trung Quốc nhận định, đăng một bài viết cho biết năm 2013 sẽ trở thành năm quan trọng của "trận giao tranh" giữa Trung Quốc với Philippines và Việt Nam trên Biển Đông trong khi "Bắc Kinh đã bắt đầu những nước cờ lớn với thế tấn công liên tục, không ngừng". Trước đó, ngày 26/4/2013, ông Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc, công khai lên tiếng đòi Việt Nam và Philippines trả lại 8 điểm đảo, bãi đá, rặng san hô nằm trong quần đảo Trường Sa cho Bắc Kinh. Những vụ va chạm nhỏ trên Biển Đông, Trường Sa (như vụ việc Philippines bắn tàu cá Đài Loan) cung cấp cho Trung Quốc cái cớ để chiếm bãi đá Scarborough và cho dù Philippines và Việt Nam có xoay sở đối phó ra sao, Bắc Kinh sẽ giữ nguyên ý định từng bước chiếm đoạt các đảo, đá ở Trường Sa.

Mục tiêu thứ tư là cố gắng chia rẽ sự doàn kết trong nội bộ khối ASEAN, với khẩu hiệu "đưa ASEAN quay trở lại châu Á" và "nhắc nhở" Philippines, Việt Nam chớ quên Bắc Kinh "có truyền thống tiên lễ, hậu binh" như tờ Hoàn cầu thời báo cảnh cáo ngày 06/05/2013 vừa qua. Trong hội nghị Shangri-La lần này, yếu tố đoàn kết trong nội bộ ASEAN có thể sẽ làm thay đổi thế cờ chiến lược trên Biển Đông. Chính vì thế, Bắc Kinh tỏ ra rất lo ngại và đã, một mặt, làm áp lực và khống chế từng quốc gia và, mặt khác, lôi kéo, chiêu dụ những quốc gia khác về phía mình. Chuyến viếng thăm bốn nước ASEAN (Thái Lan, Indonesia, Singapore và Brunei) của ông Vương Nghị, bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc, hồi đầu tháng 05/2013 vừa qua không phải tình cờ, nó có mục đích thăm dò sự đoàn kết của ASEAN như thế nào. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tấn công chiếm đóng các hải đảo trên Biển Đông bằng quân sự, Bắc Kinh sẽ gặp phản ứng mạnh mẽ của cả thế giới. Việt Nam và Philippines sẽ có thái độ cứng rắn hơn. Trước sự cố này, khối ASEAN chắc chắn sẽ đoàn kết hơn và hợp tác với Hoa Kỳ và Nhật Bản để chống lại Trung Quốc.

Mục tiêu thứ năm là xác định vai trò cường quốc hàng hải trên Biển Đông. Đối với Trung Quốc, Biển Đông không chỉ là nguồn tài nguyên thiên nhiên dưới lònhg biển mà còn là một vị trí chiến lược quốc tế quan trọng, đó là đường giao thông và vận chuyển hàng hóa liên quan tới những cường quốc lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ, Nga, Nhật, Hàn, Ấn Độ... Nếu làm chủ được con đường này, Trung Quốc sẽ là đối tác không thể thiếu trong những đàm phán trong khu vực, do đó bằng mọi giá Bắc Kinh muốn xác định vị thế của mình trên con đường đó. Theo dự trù, sau khi thống nhất với Đài Loan (chưa rõ vào năm nào), Bắc Kinh sẽ chỉnh đốn lại lực lượng trong hai năm và sau đó tiến hành tiến chiếm toàn bộ khu vực Biển Đông trước năm 2028.

Đề làm hậu thuẩn cho những mục tiều trên, trả lời một cuộc phỏng vấn do đài phát thanh Thượng Hải tổ chức ngày 27/05, ông Hàn Đúc Đông, giáo sư của trường Đại học Quốc phòng Trung Quốc, cho rằng Bắc Kinh nên tấn công khi cần thiết để chiếm các đảo và bãi cạn mà nước khác đang kiểm soát trên Biển Đông. Vì, theo ông, vấn đề Biển Đông rất khó để giải quyết bằng quyền lực mềm (ngoại giao, tòa án quốc tế, hội nghị và diễn đàn). Ông Hàn nói : "Ngoại giao chỉ phát huy tác dụng khi được quân đội hỗ trợ".

Chính vì lo ngại tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông, an ninh hàng hải và tranh chấp chủ quyền Biển Đông sẽ là một trong các chủ đề chính được bàn thảo tại Đối thoại Shangri-La, hay Hội nghị an ninh Châu Á, để kềm chế sự hung hăng của Trung Quốc. Người ta trông đợi rất nhiều vào bài diễn văn khai mạc hội nghị của thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng.

Nguyễn Văn Huy

(TL)

Âm mưu đằng sau việc người nhái TQ trang bị súng trường mạnh?

Vào ngày 29/5 vừa qua, kênh truyền hình TƯ TQ, CCTV7 đã phát đi hình ảnh lực lượng người nhái nước này được trang bị súng trường loại mới...


Theo đó, nhằm nâng cao sức chiến đấu cũng như hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ quân đội TQ đã trang bị cho lực lượng người nhái nước này loại súng trường mới có thể thực hiện nhiệm vụ tấn công tốt cả trên mặt nước và dưới nước. 
Trên thực tế loại súng trường này đã được quân đội TQ giới thiệu từ năm 2010 với tên gọi là QBS-06, thế nhưng quá trình thử nghiệm và trang bị cho lực lượng người nhái có nhiều điểm cần cải tiến cho nên quân đội TQ đã tiến hành nâng cấp thêm một số chi tiết nhỏ rồi tiến hành trang bị lại cho lực lượng người nhái.

Về cơ bản, QBS-06 có hình dáng và kích cỡ tương tự như súng trường tấn công bắn dưới nước APS của Nga với độ dài súng đạt 680 mm (không báng tì), khối lượng súng chưa kèm đạn là 3,15 kg và súng được lắp băng đạn 25 viên.
Khác với APS sử dụng cỡ đạn 5,66 x 39 mm, QBS-06 sử dụng đạn cỡ 5,8 mm tiêu chuẩn của Trung Quốc.

Súng trường tấn công QBS-06 sử dụng cơ chế lên đạn bằng trích khí với khóa nòng xoay tương tự như trong khẩu súng trường nổi tiếng AK-47.

Trong môi trường dưới nước việc chuẩn hóa đường đạn không thể thực hiện bằng chuyển động xoay của viên đạn, do đó, QBS-06 sử dụng nòng súng trơn, không xẻ rãnh khương tuyến và đầu đạn dài hình mũi tên.

Có nhiều ý kiến cho rằng loại súng trường QBS-06 của TQ có nhiều điểm “na ná“ so với súng trường dưới nước của Nga. Tuy nhiên, có một vài điểm khác biệt căn bản đã được quân đội TQ tiến hành cải tiến theo yêu cầu chiến đấu của riêng mình.

Hộp tiếp đạn to đều chứng tỏ loại đạn mà QBS-06 sử dụng có kích cỡ lớn hơn so với tiêu chuẩn của loại vũ khí tương tự của người Nga. Đồng thời, thước ngắm của QBS-06 cũng được thiết kế chắc chắn bảo đảm có việc ngắm bắn tốt hơn cũng như hạn chế sự sai lệch trong quá trình tác chiến dưới nước, tránh hỏng khi va chạm mạnh.

Không chỉ tỏ rõ sự ưu việt dưới nước QBS-06 còn có khả năng tác chiến tốt ngay cả trên mặt nước, bởi việc loại súng này còn được chế tạo thêm ốp nòng cách nhiệt phục vụ cho việc chiến đấu trên cạn nếu cần thiết. Cuối cùng, việc xuất hiện loa che lửa đầu nòng trên súng QBS-06 càng khẳng định khả năng chiến đấu trên cạn của khẩu súng này.

Có lẽ đó là những lý do mà QBS-06 được TQ kỳ vọng sẽ mang tới sức mạnh tổng hợp hơn cho lực lượng người nhái chưa được đánh giá cao trên trường quốc tế của nước này.

Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia thì suy cho cùng QBS-06 cũng chỉ là sản phẩm bắt chước vũ khí Nga và được cải tiến thêm một vài chi tiết. Do đó, sự khắc chế đối với những loại vũ khí có “tuổi“ này không phải quá khó, nếu xét góc độ so sánh trang bị vũ khí thì lực lượng nhái của TQ vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các quốc gia trong khu vực chứ đừng nói tới Mỹ và các cường quốc phương Tây.

(Báo Đất Việt)

Sunday, May 26, 2013

Trương Duy Nhất – kẻ chỉ nhìn vào một góc

Vậy là ngày 26/05/2013, Trương Duy Nhất đã Cơ quan an ninh điều tra, Bộ Công an đã tiến hành bắt giữ ông Trương Duy Nhất (49 tuổi, ngụ tại TP.Đà Nẵng) về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân theo điều 258, Bộ luật Hình sự.
Việc Nhất được di lý từ Đà Nẵng ra Hà Nội ngay chiều cùng ngày và các thông tin được công bố kịp thời và đầy đủ trên các phương tiện truyền thông cho thấy mức độ nghiêm trọng của vụ việc và quyết tâm xử lý vi phạm của cơ quan chức năng.

Xuyên tạc, đâm chọc, đi ngược lại sự thật có tạo được “một góc nhìn khác” không hay sẽ chỉ là một góc nhìn lác của những kẻ thích chơi trội, vi phạm pháp luật, coi trời bằng vung?
Đây là một kết cục không hề bất ngờ, kể cả với Nhất hay với cộng đồng mạng. Từ rất lâu, trang Một góc nhìn khác của Nhất là một nguồn chuyên cung cấp các bài viết mang tính vĩ cuồng, đầy nguỵ biện và nhằm đến mục đích cung cấp một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về Đảng, Nhà nước và tấn công cá nhân nhiều lãnh đạo của Việt Nam. Góc nhìn khác của Trương Duy Nhất là một góc nhìn méo mó và luôn được hình thành từ 3 nét chính:
Thứ nhất, Nhất dùng thủ pháp cắt khúc, chia nhỏ thông tin và chỉ đưa đến người đọc một phần nhỏ thông tin, phần còn lại thì cố tình che dấu nhằm mang lại cái nhìn sai lệch để từ đó áp đặt thông điệp tấn công người khác. Có thể thấy rõ thủ đoạn này trong bài viết về Phương Uyên gần đây, trong bài này Nhất chỉ đưa huyết thư “Tàu khựa cút khỏi biển Đông”, rồi vu cho toà án kết tội Uyên vì yêu nước, chống Trung Quốc. Bài viết này của Nhất đã lan truyền đến hàng trăm ngàn người đọc, tạo dư luận sai về bản chất vụ việc: “Uyên đã nhận sự chỉ đạo của tổ chức phản động ở Hải ngoại đả kích chế độ và kêu gọi lật đổ chính quyền. Uyên bị bắt với đầy đủ tang chứng, vật chứng rõ ràng và đã được xử theo đúng pháp luật”.

Nguyễn Phương Uyên và bức "huyết thư". Trương Duy Nhất cố tình cất bỏ đi đâu những Lá cờ ba que?
Thứ hai, Nhất luôn đặt mình ở vị thế một kẻ có quyền phán xét người khác, kể cả đó là các lãnh đạo, những người ở những vị trí phải đưa ra những quyết định khó khăn. Chỉ cần lướt qua trang của Nhất sẽ thấy hàng loạt bài viết xúc phạm trực tiếp đến các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam, từ Tổng bí thư đến Chủ tịch nước, Thủ tướng,… cho đến các lãnh đạo Đảng và Nhà nước khác. Trong các bài viết này, Nhất luôn dùng lý lẽ cùn và giọng điệu bề trên để phán xét, kết luận bôi nhọ và xuyên tạc mọi khía cạnh từ cá nhân, gia đình đến các hoạt động điều hành, lãnh đạo của các vị nói trên trong suốt một thời gian dài. Hành động xúc phạm lãnh đạo, lãnh tụ này của Nhất ngày càng leo thang và không có điểm dừng. Gần đây nhất, vào ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhất đã không ngần ngại viết bài khẳng định không tôn trọng và cho rằng không cần phải nhớ đến ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thật quá vô ơn và ngông cuồng!
Thứ ba, Các bài viết của Nhất luôn đậm nét vĩ cuồng, luôn cho mình là giỏi nhất, đúng nhất. Nhất không ngần ngại khoe các mối quan hệ với Chủ tịch nước, Trưởng ban Nội chính TW,… Nhất tô vẽ bản thân là một VIP đi đến đâu đều được các nhân vật quan trọng tiếp đón, lời nói có trọng lượng và rất uy tín để tăng sự tin tưởng vào các thông tin và phân tích từ Nhất.

Nhất không ngần ngại khoe các mối quan hệ với lãnh đạo đất nước để tô vẽ bản thân là một "VIP"
Ngay khi Trương Duy Nhất bị bắt, nhiều kẻ xấu lập tức tung tin là công an bắt Nhất để ngăn chặn tác động của trang Một góc nhìn khác đến kết quả lấy phiếu tín nhiệm Quốc hội sắp diễn ra, đòn tấn công vào Nguyễn Bá Thanh, hay thậm chí còn cho rằng đây là đòn của phe phái bảo thủ ngăn Việt Nam gia nhập Hiệp định TPP hay Việt Nam tăng cường đàn áp blogger,… Sự thật là hành vi vi phạm pháp luật của Nhất là quá rõ ràng và kéo dài nhiều năm, chính vì tác quái nhiều năm không ai động đến, cộng với quan hệ thân tình của Nhất với một số lãnh đạo khiến Trương Duy Nhất chủ quan và trở nên hung hãn, mất kiểm soát.

Trương Duy Nhất rồi cuối cùng cũng phải trả giá cho những hành động vi phạm pháp luật của mình.
Rất mong pháp luật xử đúng người đúng tội, phải giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Để nhìn khác được người thường phải tài giỏi hơn, không thể tự do viết bậy, nói bậy; nhưng Nhất đã tự do công kích các nhà lãnh đạo, như vậy là làm mất ổn định chính trị, gây ra nguy cơ cho an ninh quốc gia, xâm phạm đến quyền tự do sống bình yên của mọi người. Việc vô hiệu hoá và xử lý Trương Duy Nhất là việc đương nhiên phải làm ngay! Rất mong bài học của Nhất cảnh tỉnh nhiều người như vậy!
Bạn đọc Dương Thu Hương
(Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả)
Xem bài liên quan Trương Duy Nhất:
Nội dung Điều 258, Bộ luật Hình sự
Điều 258. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân
1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Ông Trương Duy Nhất bị bắt!

Ngày 26/5, Cơ quan An ninh Điều tra, Bộ Công an đã ra lệnh bắt và khám xét khẩn cấp đối với ông Trương Duy Nhất, sinh năm 1964, tại Quảng Nam; hộ khẩu thường trú và chỗ ở tại số 25, phố Tống Phước Phổ, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.

Ông Trương Duy Nhất bị bắt vì hành vi vi phạm pháp luật theo Điều 258 Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Quá trình thực hiện lệnh bắt, khám xét khẩn cấp, Cơ quan An ninh Điều tra, Bộ Công an phối hợp với Công an thành phố Đà Nẵng thực hiện theo đúng quy định pháp luật. Ông Trương Duy Nhất tỏ thái độ chấp hành.

Các cơ quan chức năng tiếp tục điều tra, làm rõ hành vi vi phạm của ông Trương Duy Nhất để xử lý theo quy định của pháp luật./.

(TTXVN)

Thursday, May 23, 2013

Tiểu sử ông Đinh Tiến Dũng


Sáng 24/5 ông Đinh Tiến Dũng được Quốc hội phê chuẩn làm Bộ trưởng Bộ Tài chính với 71,2 % số phiếu tán thành. Các đại biểu cũng đã nghe tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề cử ông Nguyễn Hữu Vạn, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai giữ chức Tổng Kiểm toán Nhà nước.

Ban biên tập xin giới thiệu Tiểu sử tóm tắt ông Đinh Tiến Dũng.
Ông Đinh Tiến Dũng

Ngày sinh: 10 tháng 05 năm 1961
Dân tộc: Kinh
Quê quán: Xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
Trình độ văn hóa: 10/10
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp
Ngày vào Đảng: 05 tháng 01 năm 1987
Ngày chính thức: 05 tháng 01 năm 1988
Từng giữ chức vụ: Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Tổng Kiểm toán Nhà nước
Quá trình công tác:
- Tháng 10/1978: Sinh viên Đại học Tài chính-kế toán (khoa Kế toán xây dựng cơ bản).
- Tháng 3/1983: Cán bộ Phòng Tài vụ – Tổng công ty XD Sông Đà – Bộ Xây dựng.
- Tháng 5/1987: Phó Kế toán trưởng Công ty XD Thuỷ công – Tổng công ty xây dựng Sông Đà – Bộ XD
- Tháng 5/1988:Phó phòng Tài vụ – Công ty Cung ứng vật tư Sông Đà – Tổng công ty xây dựng Sông Đà – Bộ XD
- Tháng 6/1989: Kế toán trưởng Công ty Cung ứng vật tư Sông Đà – Tổng công ty xây dựng Sông Đà – Bộ XD
- Tháng 12/1991: Kế toán trưởng Công ty XD Sông Đà 1 – Tổng công ty xây dựng Sông Đà – Bộ XD
- Tháng 4/1993: Kế toán trưởng Tổng công ty Thuỷ tinh và Gốm XD – Bộ Xây dựng
- Tháng 10/1997: Vụ trưởng Vụ Tài chính kế toán – Bộ Xây dựng.
- Tháng 6/2003: Uỷ viên Ban Cán sự, Thứ trưởng Bộ Xây dựng.
- Tháng 5/2008: Phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Điện Biên.
- Tháng 7/2008: Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên.
- Tháng 10/2010: Bí thư tỉnh uỷ Ninh Bình.
- Tháng 1 năm 2011: ông trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá XI.
- Ngày 2 tháng 8 năm 2011: ông được Quốc hội bầu vào chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước (Việt Nam) thay người tiền nhiệm là ôngVương Đình Huệ.
- Ngày 23/5/2013, thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc tờ trình đề xuất Tổng Kiểm toán Nhà nước Đinh Tiến Dũng kế nhiệm chức danh Bộ trưởng Tài chính.
- Ngày 24/5/2013, với kết quả kiểm phiếu, 355 đại biểu, tương ứng với tỷ lệ 71,2% đã nhất trí bầu ông Đinh Tiến Dũng vào vị trí Bộ trưởng Tài Chính.