Saturday, February 22, 2014

Quốc hội Ukraine bãi nhiệm Tổng thống, thả cựu Thủ tướng

Quốc hội Ukraine vào ngày 22.2 đã bỏ phiếu bãi nhiệm Tổng thống Viktor Yanukovich và tổ chức bầu cử sớm vào ngày 25.5, đồng thời trả tự do cho cựu Thủ tướng thân phương Tây Yulia Tymoshenko. Trước đó chưa đầy một tiếng đồng hồ, ông Yanukovich đã từ chối từ chức và phản đối cái mà ông gọi là một 'cuộc đảo chính'.

AFP đưa tin cho biết chính quyền Tổng thống Yanukovich đang tiến gần đến bờ vực sụp đổ sau khi người biểu tình chiếm giữ văn phòng làm việc của tổng thống và các nhà làm luật đã bỏ phiếu phóng thích bà Tymoshenko khỏi nhà tù.
Vẻ mặt bực bội của Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovich trong buổi ký kết thỏa thuận hòa bình với phe đối lập hôm 21.2 - Ảnh: Reuters

Tuy nhiên, phát biểu trên một kênh truyền hình tại thành phố Kharkiv, ông Yanukovich cho biết sẽ chiến đấu đến cùng chống lại “bọn ăn cướp”.

“Tôi sẽ không rời khỏi đất nước. Tôi không có ý định từ chức. Tôi là tổng thống được bầu cử một cách hợp pháp”, lãnh đạo Ukraine 63 tuổi này khẳng định.

“Mọi thứ diễn ra vào ngày 22.2 có thể được xem như là hành động phá hoại, trò ăn cướp và là một cuộc đảo chính. Đây không phải là đối lập, mà là một bọn ăn cướp”, ông Yanukovych gay gắt.

Chiếm giữ văn phòng tổng thống

Không hề có cảnh sát bảo vệ tại các tòa nhà quan trọng của chính phủ ở Kiev và bên trong đầy những người biểu tình mặc đồ lính được trang bị gậy gộc, AFP cho hay.
cựu Thủ tướng thân phương Tây Yulia Tymoshenko

“Khu vực nhà ở tổng thống đã nằm dưới sự kiểm soát của chúng tôi”, Mykola Velichkovich thuộc một nhóm người tự xưng là đơn vị bảo vệ Quảng trường Độc Lập cho biết.

Cảnh sát Ukraine cũng đã rút khỏi các chốt bảo vệ vào ngày 22.2, đồng thời cho biết họ ủng hộ “người dân” và “thay đổi”.

Trong khi đó, quân đội khẳng định “sẽ không có chuyện quân đội can thiệp vào cuộc xung đột chính trị”.

Hoàng Uy

Saturday, February 15, 2014

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh: 'Trung Quốc đánh Việt Nam vì muốn làm ăn với Mỹ'

Nhân tròn 35 năm cuộc chiến Biên giới Việt - Trung năm 1979, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc (1974-1987) nhìn lại sự kiện từ góc độ một nhà ngoại giao khi đó đang có mặt ở Bắc Kinh.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 15/2, ông cho biết chi tiết những gì đã xảy ra với Tòa đại sứ Việt Nam và các nhân viên vào thời điểm xảy ra cuộc chiến hôm 17/2/1979.
Ông Đặng Tiểu Bình và ông Jimmy Carter trong một buổi lễ vào tháng 01/1979
"Lúc bấy giờ thì mọi hoạt động ngoại giao đều bị đình chỉ, dù chưa tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao," ông nói.

"Khi đó sứ quán chúng tôi bị họ vây, cán bộ đi ra ngoài thì bị theo dõi."

"Nhiều khi họ gây trở ngại, nói xe chúng tôi là đi trái pháp luật, nhưng thật ra thì không phải là trái pháp luật mà là họ cố ý làm chậm trễ việc tôi đi tiếp xúc với các đoàn ngoại giao khác."

Tuyên truyền cho chiến tranh

Ông cho biết trước khi cuộc chiến xảy ra, Việt Nam và Trung Quốc đã có mâu thuẫn xung quanh vấn đề người Hoa và phía Trung Quốc đã tuyên truyền là "Việt Nam xua đuổi người Hoa".

"Họ nói họ phải đưa hai tàu vào TP.HCM và Hải Phòng để đón cái gọi là 'nạn kiều' của họ," ông nói.
"Khi Campuchia đánh phía Tây Nam Việt Nam, chúng tôi đánh lại, thì họ tuyên truyền là chúng tôi xâm lược Campuchia."

Tuy nhiên ông Vĩnh cũng nói khi đó, báo chí Trung Quốc không hề đả động đến hành động diệt chủng của chính quyền Khmer Đỏ.

"Lúc bấy giờ mấy sư đoàn của Pol Pot là do Trung Quốc trang bị. Họ trang bị cho đồng minh của họ để xúi Pol Pot đưa quân đánh phía Tây Nam Việt Nam".

Ông Vĩnh cũng nói nội bộ lãnh đạo Việt Nam lúc đó đã nhất trí hoàn toàn về việc tiến công qua biên giới Campuchia.

'Không chuẩn bị'

Thiếu tướng Vĩnh cho hay "khi biết được Trung Quốc đang làm một số đường dẫn ra biên giới thì tôi hiểu là họ đang có ý đồ muốn tạo thành một gọng kìm từ phía Bắc với đồng minh Campuchia của họ ở phía Nam."

"Thế nhưng tôi không biết chính xác khi nào là họ sẽ đánh."
Tù binh Trung Quốc trong cuộc chiến năm 1979

Ông cũng cho biết phía Việt Nam "thực sự đã không chuẩn bị gì" cho cuộc tấn công của Trung Quốc.
Trả lời câu hỏi của BBC về sự hỗ trợ của Liên Xô thời bấy giờ đối với Việt Nam trong chiến tranh biên giới với Trung Quốc, ông Vĩnh cho biết:

"Mặc dù trước đó đồng chí Lê Duẩn có ký một hiệp ước tương trợ với Liên Xô rồi, nhưng khi Trung Quốc đánh thì không có sự tương trợ nào từ Liên Xô cả."

"Khi đó chủ lực của chúng tôi chủ yếu ở phía Nam, phía Bắc thì chỉ có hai sư đoàn địa phương ghép lại để đánh lại với 60 vạn quân Trung Quốc thôi."

Tuy nhiên, ông cũng khẳng định "phía chúng tôi thì cũng không có bất mãn nào" đối với Liên Xô.
"Lúc bấy giờ chỉ có bộ đội biên giới chúng tôi đánh lại với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc lại gặp bất lợi về chiến trường vì địa hình rừng núi, tiếp tế cũng khó, hành quân cũng khó. Nên họ thương vong rất nhiều."

Vì sao không truy kích?

Trả lời câu hỏi của BBC về việc Việt Nam quyết định không truy kích sau khi quân Trung Quốc rút lui vào tháng Ba năm 1979, ông Vĩnh nói:

"Bởi vì chúng tôi không có chủ trương gây chiến tranh, sự thật thì họ xâm lược chúng tôi thì chúng tôi phải đánh, họ rút lui rồi thì thôi, chúng tôi cũng chẳng thấy phải đuổi theo để tiêu diệt thêm quân Trung Quốc làm gì."

"Miễn là họ phải rút lui khỏi biên giới chúng tôi là được."

Ông Vĩnh cũng cho rằng cuộc chiến biên giới năm 1979 là do Trung Quốc muốn tạo thiện chí với Mỹ.
"Một là họ đánh Việt Nam là để đỡ đòn cho đồng minh Pol Pot ở Campuchia," ông nói.

"Một mặt khác, họ đánh với chúng tôi để gửi đi thông điệp là không phải vì cùng là cộng sản mà Việt Nam và Trung Quốc lại thân nhau."

"Họ muốn đánh chúng tôi vì họ muốn làm ăn với Mỹ."

BBC

Friday, February 14, 2014

1979 - Cuộc chiến không thể lãng quên

Cách đây 35 năm, vào ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước. Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ biên giới phía Bắc.

Cuộc chiến tranh diễn ra trong vòng 1 tháng nhưng đã gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho cả hai nước, đặc biệt là hậu quả lâu dài đối với quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Để làm rõ bản chất, sự thật lịch sử, tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc; đấu tranh bác bỏ những luận điệu tuyên truyền sai trái, xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch, chúng tôi chuyển đến bạn đọc những nét chính về cuộc chiến tranh này. Qua đó để tôn vinh công lao, sự hy sinh to lớn của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc; cổ vũ tinh thần yêu nước, truyền thống hào hùng của dân tộc, ý chí tự lực tự cường, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, giữ gìn và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị láng giềng Việt – Trung với phương châm 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt; không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước ta, làm ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, lợi ích lâu dài giữa hai dân tộc.

Thông qua sách báo, tài liệu của Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác xuất bản từ năm 1979 đến 2009, bạn đọc sẽ thấy được diễn biến và hậu quả của cuộc chiến tranh 1979:

5 giờ sáng ngày 17/2/1979, lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Cánh phía đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái.

Cánh phía tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính. Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.

Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.

Tiến đánh nhanh lúc khởi đầu nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng. Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới khá mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn. Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn), Thông Nông (Cao Bằng) ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh thẳng vào Lào Cai.

Sang ngày 18 và 19/2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương (Hoàng Liên Sơn), Trùng Khánh (Cao Bằng), và Đồng Đăng (Lạng Sơn). Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.

Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận đánh ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc. Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía tây nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 Tiểu đoàn 4 và 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn.

Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22/2. Ngày cuối cùng tại Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa học vào các lỗ thông hơi, làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.

Đến 21/2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.

Ngày 26/2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.

Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xô đã lập cầu hàng không, chở Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn.

Ngày 25/2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 (Binh đoàn Chi Lăng) thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.

Trong giai đoạn đầu đến ngày 28/2/1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Quân đội Việt Nam còn phản kích, đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa cảnh cáo Trung Quốc.

Lạng Sơn - những trận chiến quyết tử

Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27/2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.

Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3 và 337 của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2/3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả lại 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129 cùng nhiều xe tăng, pháo của Trung Quốc, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong, huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu, huyện Cao Lộc.

Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng.

Chiếm được điểm cao 800 và ga Tam Lung nhưng trong suốt các ngày từ 28/2 đến 2/3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy chúng đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn mà có trận, quân phòng thủ Việt Nam chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3, sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4/3, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.

Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.

Trung Quốc buộc phải rút quân

Ngày 5/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Lúc đó, tại mặt trận Lạng Sơn, phía Việt Nam đã bày binh bố trận rất bài bản, chuẩn bị phản công trên quy mô lớn, đánh hiệp đồng quân binh chủng. Nếu không rút quân đúng thời điểm này thì quân Trung Quốc sẽ thiệt hại rất lớn, nhận hậu quả rất nặng nề, bị tiêu diệt gọn. Bởi lúc đó, Sư đoàn 337 của Việt Nam lên tham chiến từ ngày 2/3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Nhưng 337 đến hơi muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn. Tuy nhiên, Sư đoàn 337 đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích, đánh duổi quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Ma.

Ngày 7/3, Việt Nam tuyên bố thể hiện "thiện chí hòa bình", sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.

Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân nhưng chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi dọc biên giới 6 tỉnh phía Bắc.

Ngày 18/3/1979, Trung Quốc rút hết quân khỏi biên giới Việt Nam.

PV

11 "nghi can khủng bố" bị giết ở Tân Cương

Tân Hoa Xã dẫn nguồn tin từ chính phủ Trung Quốc hôm 14-2 cho biết 11 nghi can khủng bố đã bị giết chết tại khu tự trị Tân Cương, phía Tây Trung Quốc trong một vụ đụng độ mới nhất giữa cảnh sát và những người Hồi giáo.

Theo báo cáo, “những kẻ khủng bố đi trên những chiếc xe máy và xe hơi đã tấn công một nhóm cảnh sát đang tuần tra trước cổng một công viên thuộc huyện Vũ Trắc, quận Asku lúc 4 giờ chiều 14-2”.

Tám nghi phạm bị cảnh sát bắn hạ ngay tại chỗ. Ba tên còn lại mang theo bom đã tự phát nổ và thiệt mạng ngay sau đó.
Xung đột giữa lực lượng chính phủ và người Hồi giáo ở Tân Cương vẫn chưa chấm dứt. Ảnh: Channels TV

Cảnh sát cho biết trong xe của những “kẻ khủng bố” có chứa khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) được sử dụng cho mục đích đánh bom cảm tử.

Khu tự trị Tân Cương - quê hương của người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ - nắm giữ vị trí chiến lược ở vùng biên giới Trung Á. Bạo lực nổi lên tại khu vực này nhiều năm qua. Chính quyền Bắc Kinh đổ lỗi cho phong trào Hồi giáo ly khai (ETIM) ở Đông Turkestan là nguyên nhân chính khiến cục diện trở nên căng thẳng.

Kể từ sau vụ xe tông vào Quảng trường Thiên An Môn khiến 5 người thiệt mạng, an ninh ở khu tự trị vốn tiềm ẩn nhiều bất ổn và căng thẳng đang ngày càng leo thang này được siết chặt.

Báo cáo của các phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc cho biết tính từ tháng 4-2013, có hơn 100 người, bao gồm cả cảnh sát đã bị giết chết trong các vụ xung đột đẫm máu.

Hôm 12-2 vừa qua, chính quyền Bắc Kinh cam kết chi hơn 10 tỉ USD cho khu tự trị Tân Cương để cải thiện vấn đề nhà ở và giải quyết công ăn việc làm cho người dân.

P.Nghĩa (Theo Reuters)

Châu Á "nghiện" thức ăn nhanh hay muốn sành điệu ?

Trong khi người phương Tây đang cố gắng “lành mạnh hóa” các bữa ăn bằng cách tránh dùng thức ăn nhanh (fastfood) thì người châu Á nói chung chuộng thức ăn phương Tây hơn các món châu Á.

Một nhà nghiên cứu người Úc gốc Á Mabel Kwong đã có bài viết về nguyên nhân của việc đi “lệch hướng” giữa hai nền văn hóa trên.

Đầu tiên khi nghĩ đến ẩm thực châu Á, người ta nghĩ đến ngay hình ảnh của một tô mì chan nước dùng nóng hổi phục vụ tại bàn trong nhà hàng hay phổ biến hơn là các quán ăn xập xệ. Cách chuẩn bị món ăn của người Á châu là đầu bếp dùng tay trực tiếp để lấy mì, lấy rau và xếp thịt vào tô, sau đó chan nước dùng. Họ không chú trọng nhiều đến an toàn vệ sinh.
Một cậu bé đang cấu chiếc Ham của McDonald’s trong ngày đầu nhà hàng Mỹ này khai trương tại TP.HCM ngày 8-2-2014 - Ảnh minh họa: Quỳnh Trung (Tuoitrenews)
Trái lại với người châu Á, đồ ăn phương Tây thường xuyên được đóng gói ngay tại nhà bếp nên trông có vẻ sạch sẽ hơn, khiến họ có cảm giác đó là thức ăn hạng A và yên tâm ăn thoải mái.

Thứ hai, người châu Á cũng cho rằng việc ăn đồ Tây còn là cách biểu hiện vị thế đẳng cấp, phong cách sành điệu và thậm chí định vị họ là người giàu có, sang trọng, có gu ẩm thực. Miếng bò bít tết trang trí đẹp mắt trên dĩa trắng phau, món cá chiên, khoai tây chiên hay pizza lạ lẫm đã rất thành công trong việc "đốt cháy" túi tiền eo hẹp của những người có thu nhập trung bình.

Một bữa ăn no tại McDonald's có giá khoảng 10 USD trong khi một tô mì/bún/phở châu Á thuộc hàng khá cao cấp, trong nhà hàng máy lạnh giá chỉ khoảng 6-7 USD.

Lý do khác nữa là một bộ phận giới trẻ châu Á muốn khẳng định mình và tự tách mình ra khỏi nền văn hóa truyền thống. Ngày nay, đồ ăn Tây được biết đến như một thứ "thời trang của giới trẻ Trung Quốc". Ăn đồ Tây sẽ đẳng cấp hơn những người châu Á bình thường khác. Tiêu chuẩn phương Tây được coi là "của quý" trong nhiều quốc gia châu Á, chẳng hạn như các cô gái Á châu thường thích làm da trắng hơn cho giống Tây hay khoe khả năng nói tiếng Tây lưu loát.

Nhiều trẻ em châu Á bị cha mẹ ép ăn những món truyền thống mà chúng ghét cay ghét đắng, như cà tím hay bắp cải. Chúng ăn như những đứa trẻ ngoan nghe lời cha mẹ nhưng vẫn cảm thấy không hài lòng và "nổi loạn" bằng cách ăn càng nhiều đồ Tây càng tốt.

Các yếu tố phi văn hóa cũng giúp giải thích tại sao người châu Á thích ăn đồ ăn phương Tây. Trong một thế giới toàn cầu hóa, nở rộ phong trào nhượng quyền thương mại thì các chuỗi nhà hàng lắm tiền có đủ tiềm lực để đặt các chi nhánh của mình trên khắp đường phố, những địa điểm thuận lợi, bắt mắt để gây chú ý và rồi "gây nghiện" cho những người thích sự hiện đại. Rất tự nhiên, khẩu vị của thực khách cũng thay đổi dần theo đó.

Trong khi châu Á lý tưởng hóa fastfood nói riêng hay đồ Tây nói chung thì dân bản địa phương Tây có hàng chục lý do để “tẩy chay” fastfood, theo trang buzzfeed.com. Họ nhận ra rằng không chỉ hamburger mà cả salad cũng là những món ăn độc hại, dư béo, quá nhiều mayonaise... sẽ giết chết họ trong một ngày nào đó.

Thêm nữa là gian lận trong quảng cáo vì chiếc burger thực tế hoàn toàn khác xa hình ảnh minh họa, các video quảng cáo ồn ào phát liên tục trong nhà hàng, sáng tạo ra các món sandwich kết hợp các nguyên liệu kỳ dị. Đặc biệt nhất là “làm hỏng” một thế hệ trẻ em béo ụ vì căn bệnh béo phì.

Thậm chí đến nay Nhật Bản đã nếm “trái đắng” từ việc Tây hóa các yếu tố ẩm thực nhiều béo và calo. Thời báo Nhật Bản báo động tình trạng béo phì gia tăng ngay tại quốc gia được mệnh danh có nền ẩm thực lành mạnh nhất thế giới.

Hiệp hội nghiên cứu béo phì Nhật Bản đánh giá số điểm BMI của nước này là 25 (BMI 30 là béo phì), 20% dân số Nhật Bản bị béo phì, tăng gấp 3 lần giai đoạn 1962-2002.

CH. LUÂN (tổng hợp)

Thursday, February 13, 2014

Gái xinh chụp khỏa thân giữa hương đồng gió nội

Ngắm gái xinh chụp bán nuy giữa khung cảnh hương đồng gió nội gợi thật nhiều cảm xúc. Dưới đây là một vài shoot hình của em gái 18+ xinh xắn khiến người xem mê mẩn.

Đẹp tuy khỏa thân toàn bộ nhưng không lộ liễu.

Trẻ trung năng động, dịu dàng, căng đầy sức sống

Ảnh gái đẹp khỏa thân giữa cánh đồng ở vùng quê hương sông nước miệt vườn 

Hương đồng gió nội chẳng sai

Trái cấm ảnh khỏa thân tuyệt đẹp
Đỉnh cao nghệ thuật Nuy là đây chụp rất nghệ thuật


Trẻ trung năng động, dịu dàng, căng đầy sức sống



Trung Quốc là nước lớn, nhưng tiểu nhân?

Trung Quốc sẵn sàng dùng các thủ đoạn mà giới quan sát chính trị quốc tế gọi là “hẹp hòi, ti tiện” để trả đũa những quốc gia mà họ không “hài lòng”.

Philippines đã phải hứng chịu những đòn trả đũa với thiệt hại khá nặng nề do tranh chấp chủ quyền biển đảo với Trung Quốc. Chỉ trong một vài năm gần đây, người ta đã có thể dễ dàng liệt kê được không ít những minh chứng thể hiện sự “tiểu nhân ti tiện” của Trung Quốc khi áp dụng những biện pháp trả đũa kinh tế đối với các quốc gia nhỏ bé có lập trường trái ngược hoặc gây khó chịu cho Bắc Kinh. Các nạn nhân điển hình nhất là Na-uy và Philippines. Từ ba năm qua, sản lượng cá hồi Na – uy nhập khẩu vào Trung Quốc đã liên tục sụt giảm dù trước đó sản phẩm này đã từng chiếm đến 92% thị phần Trung Quốc. Nguyên nhân được cho là Trung Quốc đã tức giận sau khi giải Nobel Hòa Bình 2010 được trao cho Lưu Hiểu Ba – một nhà hoạt động ly khai. Bất chấp việc trao giải Nobel Hòa Bình này hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của Na-uy, Trung Quốc đã ngay lập tức áp đặt lệnh ngăn chặn việc nhập khẩu cá hồi từ quốc gia Bắc Âu này. Trước đây, cá hồi Na-uy chiếm 92% thị phần cá hồi Trung Quốc nhưng đến năm 2013, tỷ lệ này chỉ còn lại 29% và vẫn đang tiếp tục sụt giảm mạnh.


Không chỉ ngăn cản việc nhập khẩu cá hồi, một loạt các đoàn ca kịch của Na-uy trong đó có show diễn của ca sỹ trẻ đang rất nổi danh Alexander Rybak, người đoạt giải thường truyền hình châu Âu Eurovision 2009 cũng bị dừng cấp phép mà không có lý do. Công dân Na-uy cũng không được cấp giấy phép quá cảnh 72 giờ vào Trung Quốc.

Dù không đưa ra lời bình luận nào về những hành động này của Trung Quốc nhưng hãng thông tấn AFP đã có lần trích dẫn lời của ông Phil Mead, một chuyên gia tư vấn cho các doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn tại châu Âu: “Các thủ đoạn dọa nạt này là đặc trưng của cách hành xử thụ động, hung hăng và khiến cho Bắc Kinh có vẻ như là một kẻ đê tiện và thâm độc”.

Một nạn nhân khác cũng đang rất khốn đốn vì tiểu xảo này của Trung Quốc là Philippines – quốc gia đang đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong vấn đề chủ quyền biển đảo. Sau trận bão thế kỷ Haiyan khủng khiếp tàn phá đất nước Philippines hồi tháng 11/2013, Trung Quốc đã khiến cả thế giới “mắt tròn, mắt dẹt” khi thông báo viện trợ cho quốc gia Đông Nam Á này chỉ 100.000 USD – món tiền nhỏ bé đến mức không thể tin nổi so với nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và với tư cách một quốc gia đang rất thèm khát thị trường ASEAN. Khoản tiền 100.000 USD lập tức bị bêu riếu khắp thế giới và gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ, thậm chí từ chính công luận trong nước Trung Quốc. Do bị chỉ trích mạnh mẽ quá nên sau đó Bắc Kinh đã phải miễn cưỡng nâng con số viện trợ lên mức 1,8 triệu USD. Nhưng khoản tiền này vẫn là nỗi xấu hổ khi biết rằng Mỹ đã viện trợ gần 30 triệu USD, Nhật Bản 10 triệu USD, Anh 16 triệu USD, UAE 10 triệu USD, Australia 10 triệu USD…

Trước đó, căng thăng do tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Bắc Kinh và Manila nổ ra đã dẫn đến việc Trung Quốc áp đặt lệnh hạn chế nhập khẩu chuối của Philippines, viện cớ là tìm thấy dấu vết của chất diệt cỏ trong một số lô hàng. Ước tính thiệt hại của Philippines trong vụ này lên tới 23 triệu USD.

Một hành động khác thể hiện rõ nét nhất sự "trẻ con" và hẹp hòi của Trung Quốc là vụ nước này yêu cầu Tổng thống Philippines không tới tham dự Hội chợ thương mại quốc tế ASEAN - Trung Quốc diễn ra tại Nam Ninh (Trung Quốc) hồi tháng 8/2013.

Theo giới quan sát quốc tế, ngoài vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, lãnh thổ, những nguyên nhân khiến Trung Quốc thi triển “đòn trả đũa” với các nước khác còn liên quan đến một số chủ đề nhạy cảm như vùng lãnh thổ Đài Loan, vùng tự trị Tân Cương hoặc tất cả những gì liên quan đến nhà lãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng – đức Đạtlai Latma. Thậm chí, các nhà nghiên cứu Đức hồi năm 2010 còn tính được cả “hiệu ứng Đạtlai Latma” theo quy luật: Cứ nước nào tiếp đón nhân vật này, xuất khẩu của họ sang Trung Quốc sẽ bị giảm trung bình 12,5% trong hai năm sau đó.

Năm 2009, cộng hòa Palau – một quốc đảo nhỏ trên Thái Bình Dương - đã chấp nhận đón 6 người Ngô Duy Nhĩ vốn bị giam giữ ở Guantanamo được Hoa Kỳ trả tự do. Bắc Kinh lập tức thể hiện thái độ: Dự án xây dựng khu nghỉ mát trên 100 phòng với sự tham gia của nhà thầu Trung Quốc đã bị hoãn vô thời hạn.

Ngay cả báo chí Trung Quốc cũng phải thừa nhận những hành động kiểu này làm xấu đi rất nhiều hình ảnh quốc gia của Trung Quốc. Giáo sư Joseph Nye của trường ĐH Havard (Mỹ) cho rằng những điều này là bằng chứng cho thấy Bắc Kinh không có được tầm nhìn rõ ràng về tác hại của những hành động mà họ tiến hành. Tất cả đang biến nỗ lực xây dựng hình ảnh “cường quốc có trách nhiệm” mà Trung Quốc đang tốn rất nhiều tiền bạc và công sức trở thành trò cười trong mắt cộng đồng quốc tế.

Lam Giang